Tài chính - Ngân hàngThị trường
Tài chính học hành vi và tâm lý bầy đàn tại thị trường chứng khoán Việt Nam
Thật khó để không nghĩ rằng thị trường chứng khoán giống như con người: Nó cũng có những tâm trạng thay đổi thất thường từ nhạy cảm đến lạnh lùng. Nó có thể cũng phản ứng một cách vội vã để rồi phải trả giá ngay liền sau đó. Hầu hết chúng ta vẫn tin rằng tài chính là lĩnh vực của những suy nghĩ định lượng và rõ ràng. Sự thật thì các nhà đầu tư không phảo lúc nào cũng hành động một cách sáng suốt và khôn ngoan như mong đợi.
Các bằng chứng về “bong bóng” chứng khoán thế giới trong những năm 1990 là minh chứng rõ ràng cho điều đó. Bất cứ ai từng trải qua thời kỳ bong bóng Internet và tiếp theo đó là các cuộc khủng hoảng đều nhận ra lý thuyết thị trường hiệu quả không thể giải thích được nguyên nhân gây nên tình trậng đó. Và trong những trường hợp như vậy, nghiên cứu về tâm lý học lại hoàn toàn có thể giúp chúng ta hiểu được thị trường tài chính. Những hành vi vô lý một cách hệ thống là cách giải thích hợp lý dễ chấp nhận đối với những bất thường trên thị trường chứng khoán.
TÀI CHÍNH HỌC HÀNH VI
Tài chính học hành vi là lĩnh vực nghiên cứu tài chính sử dụng các lý thuyết cơ bản dựa trên tâm lý con người để giải thích những bất thường trên thị trường chứng khoán. Người ta giả định trong tài chính học hành vi, cấu trúc thông tin và đặc điểm của nhà đầu tư tham gia thị trường ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư khác một cách hệ thống cũng nhiều như sự tác động của thị trường. Một số miêu tả và giải thích của tài chính học hành vi khá thú vị, mô phỏng hành vi thị trường bằng các cuộc thử nghiệm rất đơn giản như sau:
Cho ai đó một lựa chọn hoặc là sẽ có chắc chắn 50.000 đồng hoặc là sẽ chơi trò đồng xu xấp ngửa, nếu thắng sẽ nhận được 100.000 đồng, và ngược lại sẽ không nhận được gì cả. Có vẻ như trò chơi này đầy may rủi , do đó người ta chọn việc bỏ túi chắc chắn 50.000 đồng. Ngược lại, nếu phải lựa chọn giữa việc mất chắc chắn 50.000 đồng hoặc cũng chơi trò đồng xu xấp ngửa và mất 100.000 đồng hoặc không mất gì cả. Họ có thể sẽ chọn chơi xấp ngửa. Sự may rủi trong việc tung đồng xu xấp ngửa trong cả hai trường hợp là tương đương nhau, nhưng con người lại chọn cách tham gia trò chơi để tiết kiệm những khoản lỗ, thậm chí là trò chơi này có thể sẽ mang đến một khoản lỗ lớn hơn. Điều này cho thấy khuynh hướng con người coi khả năng bù đắp một khoản lỗ còn quan trọng hơn khả năng kiếm được một lợi nhuận lớn hơn.
Trong kinh doanh, sự ưu tiên về việc tránh các khoản lỗ cũng đúng đối với các nhà đầu tư. Hãy nghĩ đến điều này, khi giá trị cổ phiếu của Nortel Networks xuống giá thê thảm từ hơn $100 một cổ phiếu vào đầu những năm 2000 xuống còn chưa đầy $2, bất chấp giá cổ phiếu xuống như thế nào, nhà đầu tư vẫn tin rằng nó có thể sẽ lên trở lại và họ tiếp tục nắm giữ cổ phiếu. Nhà đầu tư có khuynh hướng tin quá nhiều vào những giá trị dựa trên phán đoán có được ngay sau những mẫu thông tin nhỏ hoặc từ các nguồn đơn lẻ, họ quá tự tin vào các phán đoán của mình, thậm chí còn thích chộp ngay lấy thông tin rỉ tai hơn là những thông tin công bố rõ ràng. Ví dụ như nhà đầu tư tin rằng những kỹ năng thuộc tính có thể giúp họ may mắn hơn người dùng phân tích để lựa chọn một cổ phiếu tốt. Vì sao lại như vậy? Điều này chỉ có thể lý giải bằng cảm xúc. Cảm xúc – một yếu tố vô cùng quan trọng chi phối hành vi con người. Đừng bao giờ coi thường cảm xúc, nó có sức mạnh to lớn đến không ngờ!.
ĐÁM ĐÔNG VÀ CẢM XÚC
Thị trường chứng khoán được xem là một nhóm các nhà đầu tư không có tổ chức với một mục đích chung duy nhất là nhằm nắm bắt xu hướng tương lai của thị trường để từ đó có quyết định kinh doanh đúng đắn nhằm thu được lợi nhuận. Tuy nhiên, một điều quan trọng cần phải nhận ra là nhóm đông đó được hình thành bởi nhiều nhà đầu tư cá nhân khác nhau, mỗi nhà đầu tư lại thiên về các cảm xúc trái ngược nhau. Lạc quan có, bi quan có, hy vọng có, lo lắng có – tất cả mọi cảm giác đều có thể tồn tại trong cùng một nhà đầu tư tại các thời điểm khác nhau hoặc trong vài nhà đầu tư hoặc một nhóm nhà đầu tư tại cùng một thời điểm. Và mục tiêu quan trọng nhất trong bất kỳ quyết định kinh doanh nào là hiểu được ý nghĩa của sự dồn nén về cảm xúc nào, từ đó đánh giá được tâm lý thị trường của nhóm đông để đưa ra những chiến lược đầu tư sáng suốt.
Có lẽ quyển sách nổi tiếng của Charles Mackay, Extraordinary Popular Delusions and the Madness of Crowds (Tạm dịch: Những ảo giác cực kỳ phổ biến và sự mất trí của đám đông), là được nhắc đến nhiều nhất trong những cuộc bàn luận về các hiện tượng của thị trường chứng khoán, từ cơn sốt hoa tulip ở Hà Lan thế kỷ 17 cho đến những hiện tượng “bong bóng” gần nhất. Cốt truyện khá tương tự nhau: một thị trường chứng khoán giá lên (bull market) về một mặt hàng, đơn vị tiền tệ hoặc cổ phiếu nào đó khiến dân chúng thấy xu hướng tăng giá là không thể ngừng. Với cách suy nghĩ lạc quan như vậy mọi người mua “đối tượng” của cơn sốt vượt quá nhu cầu thật sự của mình. Cùng lúc đó, những người cho vay thay phiên nhau đổ thêm dầu vào lửa. Đến khi nhà đầu tư nhận ra thị trường không mạnh như họ đã kỳ vọng, sự sợ hãi tăng lên. Và chắc chắn cuối cùng khi sự lo lắng chuyển thành cơn bán đổ bán tháo thì thị trường sụp đổ, tạo ra một vực xoáy nhấn chìm thị trường sâu hơn cả trước khi có cơn sốt, và hậu quả là phải tốn nhiều năm trời thị trường mới có thể phục hồi trở lại.
Do vậy trong các quyết định đầu tư thông minh thì cảm xúc chính là kẻ thù số một của chúng ta. Cảm xúc khiến chúng ta hành động trái với những gì mà chúng ta nên làm. Cảm xúc khiến chúng ta mua trong khi chúng ta nên bán, cảm xúc khiến chúng ta bán trong khi chúng ta nên mua. Lời khuyên cho nhà đầu tư thành công là tốt nhất hãy học cách hành động ngược lại với những gì cảm xúc bảo chúng ta làm hoặc ít nhất cũng nên làm lơ với những cảm xúc đó.
TÂM LÝ BẦY ĐÀN VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Nói rất nhiều về hành vi, về cảm xúc cũng chỉ muốn đưa đến một cơ sở lý luận mới để tiếp cận Thị trường chứng khoán Việt Nam, nhìn nhận lại “tâm lý bầy đàn” cũng như giúp ích phần nào cho nhà đầu tư trong giai đoạn hiện nay.
Một chân lý hiển nhiên quen thuộc là vào bất kỳ thời điểm nào, các thị trường tài chính luôn luôn bị chi phối bởi lòng tham và sự sợ hãi. Những thị trường mạnh nhất là những thị trường nhộn nhịp bởi đồng thời có cả lòng tham lẫn sự sợ hãi. Nói rõ hơn, bất cứ khi nào bạn bán cổ phiếu thì người mua nó cũng sẽ nghĩ khác về những triển vọng tương lai của cổ phiếu đó. Bạn nghĩ nó sẽ giảm, người mua nghĩ nó sẽ lên. Hoặc bạn hoặc người mua sẽ đúng nhưng chắc chắn chỉ thông qua sự tương tác của những thái độ khác nhau như vậy thì thị trường mới nhộn nhịp đông kẻ mua- nhiều người bán. Sự sôi động của Thị trường chứng khoán Việt Nam thời gian qua cũng đã phản ánh phần nào chân lý ấy.
Thị trường chứng khoán Việt Nam trong năm 2006 có mức tăng trưởng cao nhất khu vực Châu Á- Thái Bình Dương với 145% , thậm chí đứng trên Thị trường chứng khoán Thượng Hải với mức tăng 130%. Và đầu năm 2007 vẫn đang tăng 46% – cao nhất trên thế giới. Thị trường tăng mãnh liệt đã gây sốc cho không ít nhà đầu tư trong nước và các chuyên gia chứng khoán kể cả những nhà quản lý thị trường. Kéo theo đó sự lo sợ nguy cơ hình thành bong bóng trên thị trường chứng khoán đã là đề tài gây tranh cãi trên thị trường.
Điều đáng nói ở đây, sự phát triển quá nóng của thị trường chứng khoán không chỉ làm tốn giấy mực của báo chí trong nước mà còn thu hút mạnh mẽ sự quan tâm của các báo giới nước ngoài. Thời gian trước và sau Tết, không ngày nào mà hai từ Việt Nam không xuất hiện trên mặt báo cùng với tin tức về thị trường chứng khoán. Phòng thương mại Mỹ tại Việt Nam (AMCHAM) đăng tải trên website của họ bài viết “thị trường chứng khoán Việt Nam thăng hoa thiếu cơ sở”. Thời báo Tài Chính Anh (Financial Times) dẫn lời các nhà quản lý tài chính nước ngoài cảnh báo thị trường chứng khoán TP.HCM đang rơi vào tình trạng quá nóng và vượt quá giá trị thật. Thậm chí tuần báo Wall Street Journal – tuần báo có uy tín vào hạng bậc nhất trên thế giới cũng có bài bình luận về Thị trường chứng khoán Việt Nam với tựa “Saigon’Miss”. Đáng chú ý là IMF cũng đã gửi bản khuyến cáo đến Chính phủ Việt Nam về sự bùng nổ của thị trường chứng khoán.
Rất nhiều lý do được đưa ra để giải thích cho sự phát triển quá nóng của thị trường chứng khoán Việt Nam. Nhà đầu tư trong nước đổ lỗi cho nhà đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài đổ lỗi cho sự “điên cuồng” của nhà đầu tư trong nước. Tuy nhiên quy chung lại phần lớn đồng tình cho rằng nguyên nhân chính là do tâm lý đầu tư bầy đàn, đầu tư theo phong trào của các nhà đầu tư trong nước- thiếu kiến thức cũng như không có kỳ vọng riêng. Và chơi chứng khoán trong thời gian vừa qua đã được báo chí nói tới như một thứ “mốt”, một “phong trào” lan truyền nhanh hơn bất cứ dịch bệnh nào, trên khắp cả nước. Tờ báo này ví von: “người người chơi chứng khoán, nhà nhà chơi chứng khoán”, tờ báo khác thì nói: “ăn chứng khoán, ngủ cũng chứng khoán”…
Không có gì phải chối cãi khi cho rằng hiệu ứng chứng khoán đã thực sự tác động tới tất cả mọi người. Sáng đến cơ quan, mọi người hỏi nhau về chứng khoán, trưa ở hàng cơm bụi cũng léo nhéo mấy tiếng: “chứng khoán”, rồi tối ngồi hàng nước, quán cà phê hay bia hơi, cũng vẫn thấy ơi ới câu nói quen thuộc: “chứng khoán”.
Chứng khoán ”nóng” tới mức hệ thống máy chủ của thị trường chứng khoán bị “treo”, kéo theo sàn chứng khoán của Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM phải ngừng phiên giao dịch sáng 2/2/2007. Đây là lần thứ hai Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM phải ngừng giao dịch vì các “lỗi kỹ thuật”.
Các nhà quản lý thậm chí đã phải nghĩ đến các biện pháp để hạ nhiệt thị trường.
Nhưng câu chuyện thị trường chứng khoán cũng không hề bớt sôi động khi mấy tuần khi chỉ số VN-Index liên tiếp giảm. Rồi lại đảo chiều hồi phục ngoạn mục ngay sau đó.
Đúng là thật khó tiên liệu diễn biến trên thị trường chứng khoán. Mọi lý thuyết, mọi mô hình của thị trường hiệu quả dường như vô nghĩa. Mặc dù nhà đầu tư được cảnh báo chứng khoán đã vượt quá giá trị thật hơn 30% nhưng họ vẫn mua bán, thị trường vẫn không ngừng sôi động. Thậm chí cung không đủ cầu. Vì sao vậy? Họ đã điên thật rồi ư?
Dễ thấy thị trường chứng khoán Việt Nam không vận hành theo bất cứ một quy luật nào. Lý thuyết thị trường hiệu quả hoàn toàn thất bại. Có lẽ đã đến lúc dùng đến các lý thuyết cơ bản dựa trên tâm lý con người để giải thích những bất thường trên thị trường chứng khoán:
Bình thường một nhóm các nhà đầu tư cá nhân có thể rất bình tĩnh và sáng suốt, vậy mà cũng có lúc họ lại bị áp đảo bởi những cảm xúc tiêu cực khi các nhà đầu tư khác hành động theo một cách thức phổ biến nào đó. Hiểu một cách đơn giản nhất thì chính sự sợ hãi bị “bỏ rơi” hay thất bại khi bạn bè, người thân, hàng xóm của họ có thể kiếm tiền một cách nhanh chóng, đã đưa đến sức mạnh áp đảo của đám đông.
Cũng giống như nhìn thấy sự kiếm tiền quá dễ dàng trên thị trường chứng khoán Việt Nam – cứ mua là thắng – từ những “đại gia” chứng khoán thì lời hàng chục tỷ đồng, thậm chí bà nội trợ, anh nhân viên phải gom góp, vay mượn vài chục triệu đồng làm vốn nay đã có bạc trăm triệu, thậm chí bạc tỷ đã thôi thúc người ta lao vào chơi chứng khoán. Một nhà đầu tư đã phát biểu ”Ai bảo thị trường chứng khoán là canh bạc thì kệ họ nhưng chơi thắng nhiều hơn thua thì chưa ai chịu dừng”. Chứng khoán vượt quá giá trị thật- biết chứ- nhưng họ vẫn mua. Họ chấp nhận mua với giá cao vì tin chắc rằng trên thị trường sẽ còn có người chấp nhận mua lại nó với giá cao hơn nữa. Họ vẫn kiếm lợi được. Lòng tham của con người khiến họ hành động. Còn nhìn thấy cơ hội kiếm lợi, họ còn nhảy vào. Thật là thấm thía câu nói “Tiền khiến chúng ta phát điên!” (Money makes us crazy).
Sức nóng của thị trường chứng khoán còn “hút” cả anh nông dân, bà bán đậu phộng đến ông xích lô… gom góp tiền dành dụm cả đời đổ vào chơi chứng khoán. Họ biết phân tích cổ phiếu , biết dự đoán khả năng hoạt động sinh lời của công ty? Không hề! Họ chơi theo tâm lý bầy đàn.Thậm chí có nhiều người còn mua bán theo cách hoàn toàn bắt chước các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên điều này cũng chẳng có gì là khó hiểu cả. Khuynh hướng (bản năng) bầy đàn giải thích tại sao con người lại thích bắt chước người khác. Khi thị trường lên hoặc xuống, nhà đầu tư sợ rằng người khác sẽ có nhiều thông tin hơn. Và hệ quả của điều này, nhà đầu tư cảm thấy có sự thôi thúc ghê gớm đối với việc làm theo những gì người khác đang làm. Các nhà tâm lý học cũng đã đưa ra nghiên cứu cho thấy hành vi đám đông thường có khuynh hướng hành động theo một số người chủ chốt có khả năng tiên đoán thị trường. Trong trường hợp của Thị trường chứng khoán Việt Nam, “sứ mệnh” đó được giao cho nhà đầu tư nước ngoài.
ĐÃ ĐẾN LÚC CẦN MỘT CÁI NHÌN ĐẦY ĐỦ VỀ TÂM LÝ BẦY ĐÀN CỦA NHÀ ĐẦU TƯ
Và hẳn nhiên là trong suy nghĩ của rất nhiều người, tâm lý bầy đàn là thứ gì đó rất xấu, rất đáng khinh, nên loại bỏ nó càng sớm càng tốt. Do đó một câu hỏi được đặt ra là làm sao để chấm dứt tâm lý bầy đàn trong các nhà đầu tư? Không có gì khó khăn – câu trả lời là không thể. Nhà đầu tư sẽ tự điều chỉnh hành vi của mình theo thị trường, họ sẽ rút ra bài học từ chính những thành công và thất bại của mình. Không thế có giải pháp nào được đưa ra ở đây cả. Vì tâm lý bầy đàn (hay tâm lý đám đông) là một sự tồn tại khách quan trong bất cứ một thị trường nào, không riêng gì thị trường tài chính. Các bằng chứng xã hội mà các nhà tâm lý học đưa ra sau các cuộc khảo sát hoàn toàn chứng minh được điều đó.
Hẳn nhiều người trong chúng ta đã được biết đến thí nghiệm dưới đây:
Cho một người đứng ở một góc phố và nhìn lên bầu trời trống không trong 60 giây. Một số người đi đường đã dừng lại để xem người kia nhìn gì nhưng rồi đa số cũng bước qua. Lần tiếp theo, các nhà tâm lý học cho năm người làm như vậy ở góc phố đó. Lần này số người dừng lại để quan sát đông gấp 4 lần. Khi cho 15 người đứng ở góc phố đó, có tới 45% số người qua đường dừng lại và khi tăng số người đứng ở góc phố thêm một lần nữa, có tới hơn 80% người đi đường phải ngẩng đầu quan sát theo.
Vì sao lại như vậy? Vì người ta cho rằng nếu có nhiều người cùng nhìn lên bầu trời thì chắc chắn rằng trên bầu trời phải có gì đó. Đó là lý do vì sao càng có đông người, đám đông càng dễ bị ảnh hưởng: thêm một người là thêm một bằng chứng cho thấy có điều gì đó quan trọng đang xảy ra. Họ tin tưởng rằng nếu có rất nhiều người cùng thực hiện một việc gì đó thì việc đó nhất định đúng. Bằng chứng này cho thấy tất cả mọi người dường như là nếu không biết điều gì đang diễn ra thì tốt hơn hết là nên bắt chước những gì người khác đang làm. Tồn tại khách quan là như vậy.
Và lâu nay vẫn có quan niệm sai lầm cho rằng chỉ ở Việt Nam thì mới có tâm lý bầy đàn trong đầu tư như thế. Sự thật thì tâm lý đám đông (tâm lý bầy đàn) xuất hiện ở hầu hết các thị trường mới nổi thậm chí ngay cả ở các thị trường phát triển thì vẫn có những giai đoạn tồn tại tâm lý đám đông. Nếu không, lịch sử kinh tế thế giới đã không chứng kiến nhiều vụ nổ bong bóng và khoảng hoảng như khủng hoảng Hoa tulip – Hà Lan (1634-1637), bong bóng South Sea -Anh ( 1711-1720), khủng hoảng Bất động sản Florida- Mỹ (1920-1922), đại suy thoái thế giới 1929, khủng hoảng 1987, khủng hoảng Châu Á 1997, khủng hoảng dotcom…
Các kết quả của các cuộc điều tra về tâm lý đầu tư trên thị trường chứng khoán ở Mỹ và Nhật được Robert J. Shiller- đại học Yale, Fumiko Kon-Ya -Viện nghiên cứu chứng khoán Nhật bản, Yoshiro Tsutsui- đại học Osaka tiến hành trong 10 năm, mỗi 6 tháng 1 lần bắt đầu từ năm 1989 cũng cho thấy sự ảnh hưởng của tâm lý đám đông đến quyết định đầu tư.
Điển hình theo kết quả điều tra từ năm 1995 đến năm 1997, chỉ số DowJones tăng gấp đôi từ 4069 lên 7917, gấp 3-4 lần mức tăng trung bình, ở thời điểm đó cứ 5 người Mỹ thì có ít nhất 2 người chơi cổ phiếu. Điều tra 6 tháng đầu năm 1996, có đến 32.5% ( tỷ lệ cao nhất kể từ năm 1989) nhà đầu tư cho biết dù họ biết trong tương lai sẽ rớt giá nhưng họ vẫn tiếp tục mua cổ phiếu càng nhiều càng tốt vì tin rằng giá cao vẫn có thể duy trì được một thời gian nữa. Tháng 10 năm 1997, chỉ số Dow rớt 554 điểm, nhiều nhà phân tích cho biết ngoài nguyên nhân do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á, nguyên nhân “tâm lý bầy đàn “ là rất đáng kể. Khi ấy, các nhà quản lý quỹ tương hỗ vô cùng lo lắng dự đoán về những gì các nhà đầu tư khác sẽ hành động. Dám cược là những người khác sẽ bán và vì cũng không muốn “ở lại phía sau”. Họ đã đua nhau bán cổ phiếu ra, hậu quả là tạo nên một cơn sụt giảm nghiêm trọng. Bạn thấy không? Tâm lý bầy đàn không chỉ có ở Việt Nam.
Chừng nào lòng tham và sự sợ hãi còn ngự trị trong con người thì chừng ấy còn tồn tại tâm lý đám đông. Vấn đề là nhà đầu tư khôn ngoan phải biết hành xử ra sao trong một thị trường như vậy: Sẽ đi theo đám đông hay độc lập quyết định tự tin vào các nghiên cứu phân tích của mình sẽ đánh thắng thị trường?
Câu trả lời ở đây khá đơn giản: Nên đi theo đám đông khi ý kiến của nó phù hợp với những phân tích của riêng bạn và nhanh chóng rời bỏ đám đông khi đám đông suy nghĩ ngược với bạn. Trong cả hai trường hợp đều có những thách thức nhất định.
Tuy nhiên, bạn phải luôn nhớ rằng: đám đông không bao giờ sai. Khi đám đông hành động ngược lại với những gì mà hệ thống phân tích của nhà đầu tư cho biết thì quyết định đúng đắn nhất là rời bỏ đám đông đó. Nói cách khác, nhà đầu tư nên kiếm lợi hoặc nhận ra các khoản lỗ và đứng ngoài đợi cho đến khi thị trường có dấu hiệu khả quan trở lại. Thà từ bỏ một khoản lời tiềm năng còn hơn là mất một khoản vốn trước mắt. Nhưng thật sự thì cái cảm giác mà bạn đang bỏ lỡ một cơ hội kiếm tiền mười mươi là một tâm lý vô cùng khó chịu! Một nghịch lý trong kinh doanh vẫn thường xảy ra: Bản năng tự nhiên của con người và mong muốn được hòa nhập với đám đông lại là những tình huống đưa các nhà đầu tư tài chính đến bờ vực phá sản.
Hãy nhớ đừng bao giờ chống lại sức mạnh của đám đông, nhưng phải nhận thức được các quyết định đầu tư cá nhân của bạn ảnh hưởng đến sức mạnh của đám đông xung quanh bạn như thế nào?
Đôi điều góp nhặt hi vọng đã làm rõ được phần nào nguyên nhân sự phát triển không theo quy luật của Thị trường chứng khoán Việt Nam. Đồng thời hi vọng phần nào mang lại cho người đọc cái nhìn đúng hơn về tâm lý bầy đàn của nhà đầu tư.